Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi bác sĩ CKI Phan Bá Hiếu – Phó Chủ nhiệm Khoa truyền nhiễm (A4), Bệnh viện Quân y 175.

Theo báo cáo của Sở Y tế TP.HCM, số ca sốt xuất huyết trên cả nước chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tỉnh thành phía Nam. Thành phố Hồ Chí Minh hiện là địa phương ghi nhận số ca mắc sốt xuất huyết nhiều nhất với 18.976 trường hợp (tính đến 27/6) và có 10 ca tử vong.

Tại Khoa truyền nhiễm, Bệnh viện Quân y 175 (BVQY175), trong tháng 6, số lượng bệnh nhân bị sốt xuất huyết nhập viện cấp cứu trung bình mỗi ngày từ 15- 20 bệnh nhân, không kể những ca bệnh khám tại cơ sở về theo dõi tại nhà. Số ca bệnh nặng chủ yếu tuyến dưới chuyển lên và bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sốc sốt xuất huyết.

Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm gây dịch do vi rút Dengue gây nên. Vi rút truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi đốt. Muỗi Aedes aegypti là côn trùng trung gian truyền bệnh chủ yếu. Bệnh xảy ra quanh năm, thường gia tăng vào mùa mưa. Bệnh gặp ở cả trẻ em và người lớn. Đặc điểm của sốt xuất huyết Dengue là sốt, xuất huyết và thoát huyết tương, có thể dẫn đến sốc giảm thể tích tuần hoàn, rối loạn đông máu, suy tạng, nếu không được chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời dễ dẫn đến tử vong.

Bệnh sốt xuất huyết Dengue có biểu hiện lâm sàng đa dạng, diễn biến nhanh chóng từ nhẹ đến nặng. Bệnh thường khởi phát đột ngột và diễn biến qua ba giai đoạn: giai đoạn sốt, giai đoạn nguy hiểm và giai đoạn hồi phục. Phát hiện sớm bệnh và hiểu rõ những vấn đề lâm sàng trong từng giai đoạn của bệnh giúp chẩn đoán sớm, điều trị đúng và kịp thời, nhằm cứu sống người bệnh.

Sốt xuất huyết là loại bệnh truyền nhiễm do virus Dengue gây ra

1. Sốt xuất huyết khi nào cần vào viện

Phần lớn các trường hợp bị sốt xuất huyết có thể điều trị ngoại trú và theo dõi tại y tế cơ sở. Tuy nhiên, khi người bệnh có một trong những dấu hiệu này thì cần đến viện ngay như:
– Đau bụng nhiều: đau bụng nhiều và liên tục hoặc tăng cảm giác đau nhất là ở vùng gan.
– Vật vã, lừ đừ, li bì.
– Gan to > 2cm dưới bờ sườn, có thể đau.
– Nôn ói.

– Biểu hiện thoát huyết tương do tăng tính thấm thành mạch (thường kéo dài 24-48 giờ).

+ Tràn dịch màng phổi, mô kẽ (có thể gây suy hô hấp), màng bụng, phù nề mi mắt.
+ Nếu thoát huyết tương nhiều sẽ dẫn đến sốc với các biểu hiện vật vã, bứt rứt hoặc li bì, lạnh đầu chi, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20mmHg hoặc tụt huyết áp, không đo được huyết áp, mạch không bắt được, da lạnh, nổi vân tím (sốc nặng), tiểu ít.

– Xuất huyết.

+ Xuất huyết dưới da: thường ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, bụng, đùi, mạn sườn hoặc mảng bầm tím.
+ Xuất huyết niêm mạc như chảy máu chân răng, chảy máu mũi, nôn ra máu, tiêu phân đen hoặc máu, xuất huyết âm đạo hoặc tiểu máu.
+ Xuất huyết nặng: chảy máu mũi nặng (cần Nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết nhét bấc hoặc gạc cầm máu), xuất huyết âm đạo nặng, xuất huyết trong cơ và phần mềm, xuất huyết đường tiêu hóa và nội tạng (phổi, não, gan, lách, thận), thường kèm theo tình trạng sốc, giảm tiểu cầu, thiếu oxy mô và toan chuyển hóa có thể dẫn đến suy đa phủ tạng và đông máu nội mạch nặng. Xuất huyết nặng cũng có thể xảy ra ở người bệnh dùng các thuốc kháng viêm như acetylsalicylic acid (aspirin), ibuprofen hoặc dùng corticoid, tiền sử loét dạ dày-tá tràng, viêm gan mạn.

– Một số trường hợp nặng có thể có biểu hiện suy tạng như tổn thương gan nặng/suy gan, thận, tim, phổi, não. Những biểu hiện nặng này có thể xảy ra ở người bệnh có hoặc không có sốc do thoát huyết tương.

+ Tổn thương gan nặng/suy gan cấp, men gan AST, ALT ≥ 1000U/L.
+ Tổn thương/suy thận cấp.
+ Rối loạn tri giác (sốt xuất huyết Dengue thể não).
+ Viêm cơ tim, suy tim, hoặc suy chức năng các cơ quan khác.

* Ngoài ra, xem xét chỉ định nhập viện trong các trường hợp sau:

– Sống một mình.
– Nhà xa cơ sở y tế, không thể nhập viện kịp thời khi bệnh trở nặng.
– Gia đình không có khả năng theo dõi sát.
– Trẻ nhũ nhi.
– Dư cân, béo phì.
– Phụ nữ có thai.
– Người lớn tuổi (≥60 tuổi).
– Bệnh mạn tính đi kèm (thận, tim, gan, hen, COPD kém kiểm soát, đái tháo đường, thiếu máu tan máu…).